THỜI GIAN.
Thời gian tính cả nơi có vật chất cũng như không có vật chất, đó là một véc tơ đại lượng đo đơn vị đo thời lượng đi từ âm vô cùng đến dương vô cùng.
Thời gian tĩnh của vũ trụ (tương đối) bằng trung bình cộng của thời gian động thuộc các vật thể chứa trong nó.
Chiều thời gian: đó là đơn vị tồn tại của vật thể dưới tác động của các hệ số môi trường hệ số sinh học, hoá học, vật lý…
VŨ TRỤ.
Những hạt mang điện tích trái dấu hút nhau vì những hạt mang điện tích dương có động năng lớn hơn những hạt mang điện tích âm, trường điện tích của chúng hút nhau (mang tính trung hoà về năng lượng). Như vậy chúng có tính liên kết với nhau đó chính là lực hấp dẫn của vật chất, các vi hạt vật chất tạo lên các hạt vật chất, các vật chất liên kết với nhau tạo lên những vật chất lớn hơn là các vật thể trong vũ trụ. Chúng chuyển động theo quán tính ban đầu của các vật thể và chịu tác động của lực hấp dẫn đã tạo lên vũ trụ của chúng ta một cách dung hoà giữa quán tính và lực hấp dẫn.
(lực hấp dẫn đối với các vật thể lớn đó là tổng lực liên kết vật chất của mỗi vật thể, chúng mang tính hướng tâm vì thế chúng sinh ra lực hút chung của các vật thể này đối với các vật thể khác phụ thuộc vào chất và tính của mỗi vật).
Như vậy vũ trụ của chúng ta có xuất phát điểm là không, từ chỗ không có các nguyên tố vật chất, từ chỗ không của vũ trụ trong suốt các vi vật chất dần dần hình thành lên vũ trụ, một véc tơ thời gian từ chỗ âm vô cùng tới điểm không là điểm dần dần hình thành của vũ trụ cho tới ngày nay, chúng ta chỉ có thể biết được khoảng thời gian ít nhất hình thành nên vũ trụ là khoảng chúng ta có thể nhận biết bằng thời gian đường đi của ánh sáng vật chất tại điểm xa nhất chúng ta quan sát được trong vũ trụ và vũ trụ chúng tồn tại tới tương lai vô cùng.
Không có khối vật chất khổng lồ cũng không có lực khổng lồ nào làm nổ tung khối vật chất ấy, vũ trụ chúng ta hình thành từ vi vật chất (nơi vũ trụ trong suốt) qui tụ lại thành vũ trụ, nó là vô hạn không có thình elíp hay hình nào khác gán cho vũ trụ mà là vô định hình và không giới hạn, với quần thể những vật chất chuyển động tự do và chịu sự chi phối bởi lực hấp dẫn, chúng cũng không giãn nở như chúng ta công bố, chính vì sự chuyển động tự do nên khoảng cách giữa các thiên hà thay đổi là tất yếu, vũ trụ tương đối hài hoà và ổn định.
MÔ MEN.
Lực hấp dẫn liên kết cùng quán tính chuyển động tự do tạo ra ra các vật thể và các thiên hà trong vũ trụ. Chúng có hình thù bất định, trong đó có thiên hà hình elíp, các thiên hà có các hình đa giác nhưng đặc biệt là thiên hà hình xoắn ốc là kết quả của sự hợp nhất của hai hay nhiều thiên hà có chiều chuyển động ngược chiều nhau hay sự chuyển động cùng chiều nhưng không đồng tốc tạo thành. Những vật chất chuyển động chung quanh tâm và chuyển động theo quỹ đạo hình vòng xoắn của thiên hà tạo ra tâm của thiên hà (mà chúng ta gọi là hố đen) ở phần lõi, hố đen chịu tác động của lực mô men xoắn của thiên hà lên chúng hút và phá vỡ tất cả nhữn gì chuyển động vào trong ấy (do vận tốc các vật thể tại hố đen tăng lên đến mức cực đại, lực ly tâm lúc này là vô cùng lớn chúng phá vỡ mọi lực liên kết của vật chất) sau đó những vật chất chuyển động về cuối chuỗi xoắn hố đen, và được hội tụ lại dưới tác động tròn xoay của lõi thiên hà mà tạo thành những hành tinh có hình cầu.Mô men lực, tạo ra từ trường của trái đất, làm ly tâm các hạt vật chất và lượng vật chất ấy không vuông góc với trục trái đất mà do lực hấp dẫn của các hành tinh khác làm đổi hướng lực ly tâm ban đầu tạo ra chiều ra và vào của từ trường chính là các cực của trái đất, các cực từ là nguyên nhân của góc nghiêng của trục trái đất do sự tương tác giữa các cực của trái đất với các cực của mặt trời.
sự quay vòng của các hành tinh tạo lên sự ly tâm của các hạt vật chất và điện tử với các vì sao, là sự tự toả sáng của các vì sao và hoà vào ánh sáng trong toàn vũ trụ.
MÁY TÍNH.
Tuân thủ theo chuẩn: vật lý, toán học, hoá học, sinh học…
đó là mã hoá (số hóa) theo nguyên tắc các nguyên lý ấy.
Từ ngôn ngữ máy tính sơ đẳng dùng toán học trong việc tạo ra các font chính là tạo ra hình học theo công thức toán học như hình vông, hình chữ nhật ... theo công thức của các cạnh a và b ví dụ a+m ; b+n ..... trong việc tạo ra các pont máy tính và các kí tự của chữ viết, bước tiếp là ngôn ngữ của vật lý là mầu sắc tại các điểm hiển thị của màn hình tương thích các kích cỡ bộ phận hiển thị là màn hình, nó tùy thuộc các chíp mầu của máy tính các dải tần dòng điện được diễn đạt chính xác qua bộ phận hiển thị theo qui chuẩn dải mầu của từng phụ kiện của các hãng, kết hợp giữa điều kiện toán học và vật lý tạo ra các hình ảnh hiển thị, phải kể đến thao tác của các lệnh máy tính như copy sao chép giới hạn và dung lượng thông tin , paste di chuyển tới một vị trí nào nào đó tiếp nhận dung lượng thông tin sao chép, kết hợp những điều kiện thực tại của máy tính có thể tạo ra những công cụ hiển thị dạng windows sơ khai. tiếp bước cho việc lập ra kiểu điều hành máy tính windows, trong ngôn ngữ vật lý có kể đến định dạng âm thanh, theo bo mạch riêng trong máy tính kết nối đồng thời trong bộ phận sử lý trung tâm của máy tính.
Như vậy bằng ngôn ngữ toán học và vật lý đã giải quyết phần cơ bản của máy tính đó là âm thanh, hình ảnh, video và các lệnh khác trong hệ điều hành của máy tính. Tiếp đến là ngôn ngữ hóa học định dạng các nguyên tố hóa học theo bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học từ cấu trúc cho tới các phương trình hóa học vô cơ cũng như hữu cơ được sắp xếp trình tự theo các nguyên lý hóa học cũng như nguyên tắc hóa học trong việc tạo ra các nguyên tố mới. Và ngôn ngữ sinh học chính là cấu trúc sinh học được xây dựng trên cơ sở nguyên tố hay hợp chất hóa học tạo ra là định dạng ADN của từng loài sinh học cụ thể hoặc tạo ra loài sinh vật mới theo ý đồ xây dựng của con người. Ngoài những nguyên lý trên máy tính còn hữu ích trong mọi mặt của đời sống xã hội . trong quản lý cũng như các trình vận hành các thiết bị máy móc bằng máy tính.
Một điều căn bản của các nguyên lý đó đều được số hóa từ những bước ban đầu cho tới hoàn thiện một chương trình máy tính hoàn chỉnh.
ĐĨA BAY.
Nguyên lý hoạt động: bay bằng lực đẩy laze và phản lực từ trường .
Đó là hệ thống mâm từ cấu tạo hình tròn và hệ thống chiếu dòng vi hạt vật chất theo góc 45 độ tạo thành hình chóp nón trước mâm từ tạo ra lực đẩy theo gia tốc, vận tốc được gia tăng theo cấp số cộng tới mức tối đa cần thiết cho con tầu.
Mặt khác vỏ tầu có chức năng hấp thụ năng lượng khi bay sự va chạm vật chất với vỏ tầu tạo thành năng lượng cung cấp cho động cơ, vận tốc càng tăng nhanh thì năng lượng cung cấp cho động cơ càng lớn cũng tạo lên gia tốc của phi thuyền.
Với những con tầu bay ở những cự ly ngắn thường có cấu tạo hình đĩa, với các con tầu bay ở cự ly rất xa ngoài vũ trụ thưòng có cấu tạo hình cầu để tận dụng tối đa thể tích sử dụng và sự vững trắc của vỏ tầu, những con tầu kiểu này thường được sử dụng làm tầu trung tâm hay hạm đội vũ trụ còn những phi thuyền đĩa bay chỉ làm nhiệm vụ trung chuyển.
Tính năng tàng hình quang học và tàng hình điện tử, rada kiểm tra các điểm năng lượng phát ra và và các điểm đo được, chỉ số của chúng phản ánh được môi trường xung quanh cần rà soát.
Những chiếc đĩa bay chúng tối ưu về tốc độ cũng như tính cơ động, khi đổi hướng bay. Đĩa bay thường có hình cân đối hai mặt bởi nó tạo sự cân bằng về lực khi hai góc của lực đẩy bởi hai mâm từ của hai mặt đĩa bay, chúng dễ dàng chuyển đổi góc lực đẩy tạo ra sự chuyển hướng ngay tức thì ngay cả khi đường bay theo hình góc cạnh, hình dáng của chúng cũng phù hợp khi bay trong bầu khí quyển bởi hình dáng khí động học của chúng kể cả khi lặn sâu dưới nước.
MÁY NĂNG LƯỢNG.
Sự không giới hạn về vận tốc của các tia mang các hạt, các mức độ của vận tốc đại diện cho các mức năng lượng, làm thành chức năng biến đổi, hay tạo thành sản phẩm (các mức năng lượng làm biến đổi hoặc định hình về khối lượng nguyên tử, số lượng điện tử, mật độ nguyên tử từ đó làm biến đổi các nguyên tố hoá học và tạo ra nguyên tố cần khởi tạo), tất cả các sản phẩm vật chất đều cấu thành từ các nguyên tố hoá học, lên ta có thể tạo ra sản phẩm theo ý muốn.
Đối với sản phẩm có thể theo SIM (là ghi lại cấu tạo dựa theo mức độ hiệu số năng lượng tương ứng của từng nguyên tử, hoặc phân tử, hay hợp chất tương ứng ở một hệ số năng lượng nhất định) đó là bản lưu ghi lại cấu tạo của sản phẩm, chúng có thể là bản gốc hay tạo ra nhiều phiên bản sao theo bản gốc ấy, hoặc xây dựng chúng dựa theo công thức hoá học cấu tạo của sản phẩm.
Để tiết kiệm năng lượng, các sản phẩm có thể tạo ra bằng cách biến đổi nguyên liệu là nước, một nguồn nguyên liệu vô tận. Hiđrô là một nguyên tố có nguyên tử lượng nhẹ nhất đứng đầu tiên trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học, biến đổi nguyên liệu nước đồng nghĩa với việc biến đổi (gia tăng) nguyên tử lượng nguyên tố Hiđrô vì thế có thể tạo ra bất cứ nguyên tố nào trong phạm vi bảng tuần hoàn hoá học kể cả những nguyên tố mới.
Các nguồn năng lượng như mặt trời, hố đen thiên hà và hố đen vũ trụ.
Nguồn năng lượng lớn có thể tạo ra vật thể lớn như tiểu hành tinh.
Đúng với định luật bảo toàn năng lượng: năng lượng trong tự nhiên sinh ra nó không tự nhiên mất đi mà chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác.Tổng năng lượng của toàn vũ trụ là một số cố định (không đổi) sự chuyển hóa của năng lượng nó đánh giá sự phát triển của vũ trụ trải qua các thời kỳ.
* Việc tạo ra máy năng lượng nhằm mục đích tạo ra sản phẩm để phục vụ cho loài người chúng ta một cách đầy đủ và hạnh phúc hơn.
HÀNH TINH THAY THẾ VÀ MẶT TRỜI NHÂN TẠO
Trái đất chúng ta nằm trong thiên hà hình xoắn ốc cho nên sự dịch chuyển vào trong tâm là một điều tất yếu nhưng chúng ta là một hành tinh non trẻ nằm cách xa tâm với khoảng cách 30 000 năm ánh sáng với vận tốc dịch chuyển bằng 1/1000 vận tốc của ánh sáng thì trái đất phải 30 triệu năm nữa mới bị tan biến. Nền văn minh chúng ta mới đi một khoảng thời gian là hơn 2000 năm với thời gian còn lại chúng ta hoàn toàn có thể tạo ra những hành tinh đầy đủ các điều kiện nước, không khí và ánh sáng để di cư một cách an toàn, ngay nguồn ánh sáng chúng ta cũng có thể tạo ra bằng cách, tạo ra nhiều tiểu hành tinh quay quanh một hành tinh lớn để tạo ra lực hấp dẫn kéo lực ly tâm của hành tinh lớn đủ ly tâm và tạo ra bức xạ chiếu sáng cho các tiểu hành tinh xung quanh. Với sự thi công của các cỗ máy năng lượng khổng lồ.
Hiện tượng giao thoa giữa các thiên hà có diễn ra trong vũ trụ nên việc bảo vệ thiên hà của chúng ta là có thể, bằng máy năng lượng lớn lấy nguồn năng lượng từ phía đáy của thiên hà tạo ra dòng siêu vi lượng lớn tương tác với mạng lưới vi vật chất không gian vũ trụ làm thay đổi về cấu trúc không thời gian vũ trụ để lái thiên hà theo ý muốn tránh thảm hoạ hai thiên hà có thể giao thoa.
Với các quỹ đạo chuyển động của các thiên hà giao cắt là có thể trong vũ trụ nhưng vào thời điểm trùng giữa các thiên hà với nhau hiện tượng ấy xác suất là rất nhỏ, với bán kính của mỗi thiên hà cũng là hàng trăm nghìn năm tốc độ ánh sáng thì những khoảng cách giữa chúng là vô cùng lớn nên chỉ số ấy chỉ trong khoảng 1/10 tỷ năm mới xảy ra một lần. Nhưng vẫn phải có phương hướng để bảo vệ loài người trường tồn mãi mãi.
NHỮNG KHÁI NIỆM MỚI VÀ THỰC NGHIỆM
* Cùng nhau tìm hiểu.
– Để làm thực nghiệm chứng minh có thể tăng vận tốc ánh sáng. Khi chiếu một chùm ánh sáng qua ống dây thì thấy ánh sáng thay đổi vậy quang thông của chúng tăng lên có thể là do số lượng điện tử tăng lên trong một đơn vị diện tích thì chứng minh làm sao được? có phải vận tốc của chúng tăng lên? khi chiếu chùm tia sáng qua ống dây sẽ không tiếp xúc với dòng điện sẽ không có điện tử truyền vào chùm tia sáng mà chỉ có trường năng lượng đẩy các hạt ánh sáng, chúng ta có thể cảm nhận được bằng cảm quang trực tiếp chứ không cần phải những thí nghiệm cầu kỳ hay vĩ đại.
- Theo một số quan điểm cho rằng với vận tốc của vật thể bay nhanh hơn vận tốc của ánh sáng sẽ xảy ra trường hợp phân rã của vật chất
liệu có đúng hay không? thực tế là không. Vì chỉ khi nào có ngoại lực tác động vào phần tử vật chất với một lực lớn hơn lực hút của hạt nhân với các lớp điện tử thì mới tạo ra sự phân rã, hoặc ngoại lực đủ sức phá vỡ sự liên kết hạt nhân của chúng.
Trong khi các vật thể ngoài vũ trụ chúng ít chịu ảnh hưởng của lực hấp dẫn bởi khoảng cách trong vũ trụ là vô cùng lớn có thể nói lực hấp dẫn chỉ bằng không vì vậy khi tầu vũ trụ bay nhanh hơn vận tốc của ánh sáng cũng không thể phân rã được.
- Khi quan sát các thiên hà bằng kính viễn vọng chúng ta thấy có nhiều thiên hà lớn hình xoắn ốc có bán kính hàng trăm nghìn năm của vận tốc ánh sáng được dịch chuyển chỉ trong một thời gian ngắn. Như vậy những vì sao nằm ngoài rìa của thiên hà ấy chúng dịch chuyển cùng với kết cấu của thiên hà với vận tốc nhanh hơn ánh sáng có thể nói gấp hàng trăm lần tốc độ của ánh sáng, không chỉ có tốc độ của ánh sáng là nhất nhất không có mức vận tốc nào vượt qua ngưỡng của tốc độ ánh sáng, vận tốc trong vũ trụ có thể nói là không có giới hạn.
Giả sử một thiên hà hình xoắn ốc có bán kính 100.000 năm tốc độ của ánh sáng thì lực mô men của nó sẽ là: F= ω.M/R vậy vận tốc góc của nó sẽ bằng ω=F.R/M. Nhưng một khi thiên hà tồn tại một bán khính như vậy thì lực hướng tâm (lực hấp dẫn) của chúng ít nhất cũng bằng lực mô men của vận tốc chuyển động của thiên hà :F= F hấp dẫn trong khi đó lực hấp dẫn F=G.M (G) là hằng số hấp dẫn
thay F hấp dẫn vào tính vận tốc góc ω=GMR/M vậy ω=G.R . R bằng một trăm nghìn năm vận tốc ánh sáng vậy vận tốc của các hành tinh ngoài rìa của thiên hà sẽ gấp 4,411 lần vận tốc của ánh sáng và 142371 năm trái đất để đi hết một vòng của thiên hà ấy.
– Vì sao các thiên hà thường chuyển động theo quỹ đạo hình tròn? các vi vật chất bao quanh chúng là trường năng lượng có hình cầu lên chúng có xu hướng chuyển động theo các quĩ đạo hình tròn là hợp lý.
– Vậy có đại vũ trụ hay không? chúng có qui tụ theo lực hấp dẫn thành đại vũ trụ hay không?
Câu trả lời là không vì không phải lực hấp dẫn lúc nào cũng thắng mô men lực của thiên hà, khi vận tốc và bán kính không đồng nhất thì chúng sẽ tách ra khỏi thiên hà và tạo ra chùm vật thể mới với quỹ đạo mới thì sẽ không có đại vũ trụ xảy ra.
* Tại sao quỹ đạo trái đất quay quanh mặt trời không phải là hình tròn mà là hình Elíp?
Như chúng ta đã biết thiên hà chúng ta là thiên hà hình xoắn ốc sự sinh ra các vì sao từ tâm của thiên hà và chúng gia nhập vào vành đai thiên hà theo một quán tính ban đầu và chịu sự hấp dẫn của các vì sao nơi chúng tham gia tạo ra quỹ đạo riêng của mỗi thực thể.
Trái đất của chúng ta cũng vậy nó tự quay quanh trục và quay quanh mặt trời với một quỹ đạo hình elíp. Tại sao lại như vậy? cũng như trái đất mặt trời cũng quay quanh trục của nó và sự quay vòng ấy cũng tạo ra quỹ đạo riêng của nó trong thiên hà. Nhưng vòng quỹ đạo của mặt trời so với thiên hà và tâm của thiên hà thì hầu như vị trí không đổi. Chính vì lẽ đó mà vị trí trái đất quanh mặt trời và tâm của thiên hà đã tạo ra một quỹ đạo hình elíp do lực hút hướng tâm của hố đen thiên hà.
- 1 Khi trái đất và mặt trời và hố đen thiên hà là một đường thẳng mặt trời ở giữa trái đất chịu sự hút của cả mặt trời và lực hút của hố đen nên vị trí của trái đất gần mặt trời nhất đó chính là hạ chí.
- 2 Khi trái đất nằm giữa mặt trời và hố đen thiên hà thì nó bị hút bởi hố đen thiên hà cho nên nó xa mặt trời nhất chính là đông chí.
- 3 Khi trái đất chuyển động tới vị trí có chiều vuông góc với trục đông chí và hạ chí về hướng cùng chiều với chiều quay của thiên hà thì trái đất ảnh hưởng bởi quán tính chuyển động củ chiều quay thiên hà nên vị trí trên đường quỹ đạo gần mặt trời hơn so với đông chí đó là xuân phân.
- 4 Khi vị trí của trái đất chuyển động tới điểm đối diện trên quỹ đạo do quán tính chuyển động của thiên hà nó kéo trái đất xa mặt trời hơn so với hạ chí đó chính là thu phân.
Vì 4 lý do đó mà quỹ đạo của trái đất quanh mặt trời không phải hình tròn mà là hình elíp. Khi khoảng cách giữa trái đất và mặt trời thay đổi thì trục nghiêng của trái đất cũng thay đổi do lực tương tác các cực của trái đất và các cực của mặt trời cũng thay đổi, làm cho sự thay đổi của 4 mùa cũng rõ rệt hơn.
Hệ mặt trời trong thiên hà chứa trái đất
* Lực hấp dẫn và ánh sáng trong vũ trụ.
- Đối với vi vật chất hình thành đầu tiên trong vũ trụ lực hấp dẫn tạo ra bởi sự trung hòa về năng lượng nhưng những phần tử thế nào là mức dương tính, âm tính và trung tính? Trong vũ trụ môi trường chung là các vi vật chât trong vũ trụ nó chiếm phần lớn trong sự tồn tại của vũ trụ là các vi hạt và trường năng lượng của chúng. Ngay trong một nguyên tử của một nguyên tố mức duơng hay âm tính của các phần tử cũng khác nhau, mức trung tính được coi là điểm không cũng tương đối nó phụ thuộc vào từng môi trường cụ thể nhất định. Hay trong mỗi nguyên tử thế năng của hạt nhân và động năng của các điện tử quay xung quanh là cân bằng và nó phản ánh giá trị năng lượng riêng của mỗi nguyên tố, khi động năng của các điện tử tăng lên là sự tăng lên về nhiệt, khi tới mức tối đa vượt qua giới hạn lực hút của hạt nhân thì chúng sẽ bứt ra theo phương tiếp tuyến với bán kính của đường tròn nguyên tử mà tạo ra ánh sáng,
chính vì lẽ ấy mà tốc độ của ánh sáng bị giới hạn ở mức tối đa là 299.792.458 m/s vì mức hấp dẫn tối đa của hạt nhân cũng nằm trong phạm vi của các nguyên tố hóa học.
Khi nhiệt độ thấp là khi động năng các điện tử quay xung quanh hạt nhân thấp đi, lực hút của hạt nhân khiến bán kính quỹ đạo của các điện tử giảm xuống, vì vậy hầu hết các nguyên tố đều tuân theo nguyên lí nóng nở ra và lạnh co lại,
Có nguyên tố đặc biệt thì không tuân theo nguyên lý ấy mà ngược lại khi lạnh lại có thể tích lớn hơn vì khi nhiệt độ thấp bán kính quỹ đạo của các điện tử và hạt nhân giảm xuống sự tương tác lực hai chiều giữa nguyên tử tăng lên kéo theo sự gia tăng về thể tích của hạt nhân cũng như nguyên tử nói riêng và vật thể nói chung tạo ra sự đặc biệt của nguyên tố ấy,
Đối với hợp chất như nước đá chẳng hạn chúng cũng không tuân theo nguyên lý chung mà khi lạnh thể tích của chúng cũng tăng lên do khi nhiệt độ thấp bán kính của các điện tử lớp vỏ thấp đi gây ra lực hút chung kể cả điện tử của nguyên tố có mặt trong hợp chất, những nguyên tố có nguyên tử lượng lớn hơn sẽ kéo điện tử của nguyên tố có nguyên tử lượng thấp hơn. vì vậy gây lên hiện tượng tăng bán kính của nguyên tố có nguyên tử lượng thấp và tạo ra sự tăng thể tích nói chung của hợp chất . Điển hình như nước đá chẳng hạn. Các phần tử theo xu hướng trung hòa tạo lên hạt nhân và hạt nhân gây ra lực hút với các điện tử là lực liên kết của vật chất hay chính là lực hấp dẫn của vật chất. Là nhân tố tạo lên sự hình thành của vũ trụ.
- Về nguồn sáng của vũ trụ, không chỉ có lực ly tâm của các hành tinh tạo ra sự bứt ra của các hạt tạo ra ánh sáng mà sự chuyển động của các vì sao hay các vật thể cũng tạo ra ánh sáng chính là sự bứt ra do quán tính của vật chất so với trạng thái chuyển động, là do môi trường hấp dẫn (ngoại lực) tác động theo chiều ngược lại của chuyển động. nguồn ánh sáng này chiếm phần lớn nguồn sáng trong vũ trụ.
- Trong công đoạn cốt lõi của máy năng lượng (công đoạn tạo thành sản phẩm) cũng thế nó ứng dụng cả nguyên lý hấp dẫn và qui tắc hội tụ.
- Việc tiếp nhận năng lượng từ các nguồn năng lượng trong vũ trụ và chuyển tải chúng bằng các trạm thu, phát, qua nhiều trạm trung gian tương tự như hệ thống GPS của chúng ta để tận dụng được những nguồn năng lượng khổng lồ trong vũ trụ.
* Những tác động của máy năng lượng tới tôn giáo, khoa học và xã hội.
– Về mặt tôn giáo: sự ra đời của máy năng lượng cùng với sự tương tác của nó với não bộ của con người đã tạo ra những giá trị to lớn, có những người có khả năng tiếp nhận được thông tin bằng não bộ, có những người có khả năng Online bằng não bộ và cũng có những người có khả năng truy xuất thông tin, dữ liệu cùng với quyền và nhiệm vụ của mình với khả năng của máy năng lượng có thể tạo ra vạn vật muôn loài có thể tôn những người ấy là đấng quyền năng thực thụ.
– Về mặt khoa học: máy năng lượng nó đánh dấu một bước tiến khoa học có thể nói là tới giới hạn cuối cùng của khoa học, là đỉnh của đỉnh cao khoa học, con người đã đạt tới ranh giới cuối cùng của khoa học.
– Về mặt xã hội: sự vạn năng của máy năng lượng đã tạo ra một hình thái mới cho loài người với sim của mỗi người con người có thể trở thành trường sinh bất lão, cải lão hoàn đồng, khi ấy mỗi sinh mạng mới ra đời là một sự quí giá và hiếm hoi trong một xã hội bảo toàn sự sống.
* Tại sao xảy ra trường hợp có những thiên hà tuần hoàn tái tạo ra các hành tinh?
Tại sao xảy ra trường hợp có những thiên hà tuần hoàn tái tạo ra các hành tinh?
Như ở phần trước đã đề cập đến những thiên hà đặc biệt có hình xoắn ốc có khả năng tạo ra các hành tinh nhưng phải thỏa mãn những điều kiện sau:
Với điều kiện lực ly tâm lớn nhất [(Fk)max] phải lớn hơn lực hấp dẫn lớn nhất của vật thể [(Fh)max].
Thì mới xảy ra sự tan rã vật chất của vật thể.
Như chúng ta đã biết trong trường hợp thiên hà xoắn ốc sản sinh ra lực mô men, lực này tỷ lệ thuận với vận tốc góc và khối lượng của vật thể nhưng lại tỷ lệ nghịch với bán kính của đường tròn mô men. Vì vậy xảy ra điều kiện R nhỏ nhất chỉ bằng 1 [ F = ω.m.(1/r) ] nếu r nhỏ hơn 1 thì trái với điều kiện ban đầu (là tỷ lệ nghịch với r). nó đúng trong thưc tế mô men lực đối với những đường tròn cụ thể, nghĩa là với những đường tròn có bán kính r xác định cụ thể bằng một đơn vị cụ thể.
Trong mô men lực xác định trường hợp (Fk) lớn nhất tức là Fk max khi bán kính nhỏ nhất, chính là điểm gốc hay là tâm điểm của đường tròn đó là r=0. nó trái với qui tắc của vật lý vì kết quả nhân với 0 sẽ bằng 0. Bằng quan trắc thực nghiệm của thực tế thì (Fk) lực ly tâm của mô men lực tại tâm điểm sẽ đạt Max và sẽ bằng 2 (Fk) tức là đối xứng của 2 véc tơ lực ngược chiều theo đường kính của đường tròn.
Vì vậy sẽ có thêm một điều kiện nữa đối với mô men lực đó là: F Max = 2 Fk và r Min ≥ 1.
- Với hai điều kiện như vậy trong trường hợp r=1 và F=1 thì đồ thị biểu diễn của lực mô men sẽ có điểm uốn là giao điểm của ( 1; 1)
- Khi điều kiện r =1, đồ thị có F = ω.m sẽ là đường thẳng song song với trục tung của trục tọa độ. Vì vậy đồ thị biểu thị của nó sẽ là hypebol đặc biệt có điểm uốn là giao điểm của (1;1) và một cạnh song song với trục tung.
- Như vậy chúng ta xác định được điều kiện của thiên hà sản sinh ra hành tinh phải là thiên hà xoắn ốc và có lực ly tâm lớn hơn lực hấp dẫn của vật thể. với các thiên hà có quĩ đạo vòng xoắn sẽ tạo ra lõi theo hình xoáy nước, khi vật chất tan rã ở tâm thiên hà chuyển động về phía đuôi lõi xoắn, F ly tâm thấp dần, ( Fk ≤ Fh) lúc này lực hấp dẫn sẽ hội tụ vật chất theo hình cầu mà tạo ra hành tinh.
* Công thức tổng quát của máy năng lượng.
– Khi trường hợp biến đổi từ một nguyên liệu nguồn: M = M1 + vt(m1 + Σ amn)
M : Là khối lượng sản phẩm tạo thành
M1: Là khối lượng nguyên liệu biến đổi
v: Là vận tốc dòng năng lượng
t: Là thời gian
m1: Là khối lượng khởi tạo lên proton
a: Là số của các hạt thuộc một lớp điện tử
m: Là khối lượng khởi tạo lên các hạt điện tử
n : Là hệ số thuộc mỗi lớp điện tử
Σ : Là tổng số
- Khi trường hợp xây dựng sản phẩm hoàn toàn bằng nguồn năng lượng khởi tạo (M1 = 0): M = vt(m1 + Σ amn)
THEO CÔNG THỨC : E = MV
Hai đại lượng M và V : nếu m là một số cố định thì vận tốc phải là một đại lượng biến thiên tùy thuộc vào cấu tạo của sản phẩm, như vậy xảy ra trường hợp đuổi nhau giữa các hạt trong cùng một dòng và gây ra sự va chạm giữa các hạt, vì thế khoảng cách và vận tốc phải được tính toán gây ra sự hạn chế của vận tốc chung, hạn chế của máy năng lượng.
Vì vậy để không hạn chế về vận tốc làm tăng công suất thì lựa chọn m là đại lượng biến đổi. Điều này hoàn toàn có thể giải quyết được với một đại lượng m tối thiểu xác định được tương tác với trình tích hợp qua màng tích hợp theo độ phân giải nhất định và được tăng tốc tối đa khi tạo ra sản phẩm.
ĐÓ LÀ SỰ LỰA CHỌN TỐI ƯU CỦA MÁY NĂNG LƯỢNG.
* Sự tối ưu của số nhị phân trong kỹ thuật số.
Trong thời đại hiện nay công nghệ số bao quát hầu hết mọi lĩnh vực trong cộc sống xã hội. Đại diện cho công nghệ số đó là công cụ máy tính, khi nói đến máy tính chúng ta hãy nói về hệ nhị phân trong máy tính.
Trong máy tính hình ảnh, video đều được số hóa theo điểm phân giải đại diện cho từng điểm hình riêng rẽ hoặc sự thay đổi điểm mầu sắc ấy theo một đơn vị thời gian ví dụ như video là 24 hình / giây, ngoài ra kể đến các ký tự cũng được số hóa. hay âm thanh cũng được số hóa cho cường độ, tần số, bước sóng… bằng các con số. hay các chương trình tính toán cũng được lập trình theo các lệnh toán học hoặc nhóm ký tự nhất định cũng bằng các con số.
Để tính toán cộng, trừ. nhân . chia… đều tuân thủ theo sự phân tách hoặc tích hợp lượng điện tử qua các nhánh vi mạch với trung tâm và bộ đếm dung lượng điện tử. ví dụ 10:2 là sự phân đôi một dung lượng qua 2 nhánh nhất định đều nhau thì dung lượng điện tử sẽ bằng 5, hoặc 2+2 là sự hợp nhất của 2 mức dung lượng điện tử qua hai nhánh vi mạch, tổng lượng điện tử sẽ là 4.
Khi nói đến máy tính một yếu tố phải kể đến đó là đồng hồ điện tử là sự đếm lưu lượng điện tử chuyển động qua một đơn vị tiết diện với một vận tốc dòng không đổi theo một chuẩn nhất định (t = S : v), vận tốc dòng điện là rất lớn vì vậy đồng hồ điện tử nó rất chính xác, có thể chính xác tới 1 phần triệu của giây.
Như vậy máy tính và các thiết bị kỹ thuật số là tập hợp đồng bộ bằng số hóa (tập hợp các số tự nhiên cấu thành lên các dãy số), nhưng khi lưu trữ vào các bộ lưu trữ thì phải nhị phân các số tự nhiên (vì lý do các nguyên tố hóa học thuộc phạm vi bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học chỉ có 7 lớp điện tử đặc trưng cho 7 giá trị năng lượng tương ứng với 7 con số tự nhiên vì vậy sự nhị phân các số tự nhiên thành các ký tự thuộc 2 giá trị là một sự lựa chọn tối ưu trong kỹ thuật số) .
Đó là sự qui định về số nhị phân là kí hiệu số lần chia được cho 2 biểu diễn bằng con số 1 và số không chia được cho 2 biểu thị bằng số không. Và chỉ lấy một lần số dư khi chia cho 2 để tránh trường hợp tuần hoàn khi thêm số 0 vào con số 1 sẽ là 10 chia cho 2 sẽ dư 1 và tiếp tục thêm 0 nó sẽ trở lên vô định, và các con số nhị phân phải là có số ký tự là nhỏ nhất cho sự tối ưu cho tốc độ và dung lượng máy tính.
Số 0 không chia được cho 2 thì số nhị phân được biểu diễn là(0); số 1 không chia được cho 2 sẽ biểu diễn là ký tự 0 và thêm số không vào con số 1 thành 10 thì chia hết cho 2 vậy số nhị phân biểu diễn là 1 như vậy nhị phân con số 1 là (01); con số hai chia cho 2 được 1 và không dư vậy nhị phân của 2 là (1); con số 3 chia được 1 lần cho 2 và còn lại 1 thay nhị phân của 1 vào sau 1 lần vậy nhị phân của số 3 là (101) , tương tự như vậy 4 chia 2 được 1 lần còn lại 2 thêm nhị phân của 2 vào sau 1 lần vậy nhị phân của 4 là (11) cứ như thế ta biểu diễn các số 5,6,7,8,9 sẽ biểu thị được bằng các số nhị phân mà các con số không bị trùng lập và có các số lượng ký tự là tối ưu nhất.
Hơn thế nữa các phép tính toán đều tính bằng số nhị phân vậy trong mọi bước thao tác của máy tính cũng phải nhị phân như thế tốc độ máy tính bị cản trở vô cùng, mà các phép tính toán đều bằng các con số tính toán thông thường thông qua trình tính toán như trình turbo/ pascal. mà kết quả cũng không bị rơi vào vòng vô hạn tuần hoàn.
* Tổng năng lượng trong vũ trụ là Super Max.
Tổng năng lượng trong toàn vũ trụ là một số không đổi: E = MV. Trước hết ta hãy xét đến yếu tố vận tốc. Vận tốc của vũ trụ bằng trung bình cộng của các vật thể trong toàn vũ trụ :V= v1+v2+v3+…vn chia cho n đơn vị vận tốc.
Trong khi vận tốc của mỗi vật thể phụ thuộc vào quán tính tự do ban đầu của chúng hay nói một cách khác chúng phụ thuộc vào khối lượng và hằng số hấp dẫn vũ trụ: V = MG trong đó G là hằng số hấp dẫn của vũ trụ chính là xu hướng trung hòa của các vi vật chất hay là hướng liên kết đối với các vật thể. Thay V vào công thức E = MV thì ta có E = M²G.
Trong khi trọng lượng của các vật thể chính đơn vị tạo ra tính theo lực F do một vật tạo lên trên bề mặt trái đất phụ thuộc hằng số hấp dẫn, ví dụ một vật 1kg ở trên trái đất khi ở trên mặt trăng sẽ khác đi nó phụ thuộc vào g của từng vật thể nhất định, g của trái đất bằng 9.80665
Như vậy tính tương đối của trọng lượng M liên hệ với cách tính của khối lượng (trên cơ sở tỷ khối của các chất) của chúng với hằng số hấp dẫn, trong khi vũ trụ là không có giới hạn vậy thể tích của nó là một số vô hạn vậy M là một số cực đại vô cùng. E = MV thì có thể nói năng lượng trong toàn vũ trụ là một số Super Max.
Hay hiểu theo một nghĩa khác E = MV tức năng lượng tính cho một mức vận tốc của một khối lượng vật thể nhất định, ở đây V được tính cho vận tốc thời điểm đó là Vt tính theo G hằng số hấp dẫn của một đơn vị vật chất, M đóng vai trò như một hệ số của đơn vị hấp dẫn biểu trưng cho mức độ lớn , nhỏ của động năng cho vật thể.
Trong vũ trụ vận tốc Vo là vận tốc ban đầu và vận tốc Vt vận tốc thời điểm thường thường cũng bằng nhau, vì vận tốc chuyển động theo quán tính ban đầu của vật thể, cũng có trường hợp Vo khác Vt do tương tác của lực hấp dẫn hoặc va chạm giữa các vật thể trong vũ trụ, trong trường hợp đó Vt được xác lập lại từ đầu tính từ thòi điểm xảy ra chuyển động.
G là hằng số hấp dẫn trong phạm vi vũ trụ, G không tính theo định luật hấp dẫn thông thường là giữa hai vật thể, khối lượng và khoảng cách giữa chúng mà G đơn lẻ của một vật thể chúng phụ thuộc vào tính chất của vật thể (độ đậm đặc của vật chất); và vận tốc chuyển động trong quỹ đạo của vật thể; và yếu tố vận tốc quay quanh trục (lực ly tâm của trường vật chất của vật thể); ngoài ra G còn ảnh hưởng bởi môi trường hấp dẫn của vũ trụ chứ không phải chỉ có hai vật thể ( như một mạng lưới hấp dẫn).
Như vậy E =MV ; V= MG do đó E = M²G .
Trường hợp trên là năng lượng thế năng trong vũ trụ , đối với trường hợp giải phóng năng lượng vật chất vì năng lượng hợp thành bằng năng lượng khi giải phóng. E= mc² Ví dụ như bom nguyên tử là sự bắn phá nguyên tử theo dây chuyền , số lượng nguyên tử bắn phá theo cấp số nhân hai nguyên tử bắn phá hai nguyên tử thành bốn, bốn nguyên tử bắn phá bốn nguyên tử thành mười sáu...... cứ như thế cấp số nhân nguyên tử bị bắn phá với tốc độ của ánh sáng. trong trường hợp bom H là dùng bom nguyên tử để bắn phá nguyên tố dễ bị phá hủy, lượng nguyên tử bị kích hoạt đồng thời số lượng nguyên tử bị bắn phá ngay tức thì chứ không theo dây chuyền theo thời gian, vì thế năng lượng chúng tạo ta ngay trong một thời điểm khủng khiếp gấp hàng chục lần bom nguyên tử.
Như vậy vận tốc ánh sáng cũng không nói lên điều gì ngày nay vũ khí laze còn gia tốc ánh sáng năng lượng. nhưng với mục đích hòa bình là yếu tố chế ngự sự hủy diệt kinh hoàng của vũ khí hạt nhân góp phần vào môi trường hòa bình của thế giới.
SỰ HOÀN HẢO CỦA ĐỒNG BỘ SỐ HÓA.
Trong kỹ thuật sự số hóa đã mang lại lợi ích to lớn cho con người, chúng có thể như một hệ thống chung gắn kết mọi thiết bị với nhau, từ mạng sử lý thông tin cho tới vận hành máy móc.
Không những thế số hóa còn liên kết nhiều mạng kỹ thuật với nhau từ mạng sử dụng công nghệ điện tử (là mạng máy tính hiện hành) cho tới mạng sử dụng công nghệ proton hay mạng máy tính sử dụng công nghệ nơ-ron thần kinh, tất cả đều có một sự thống nhất trong việc số hóa dữ liệu.
Trong mạng điện tử hiện hành số hóa là việc vi sử lý số hóa các dữ liệu âm thanh, hình ảnh, video,chương trình, …
-Trong âm thanh là việc số hóa các dữ liệu như: biên độ, chu kỳ, tần số âm
-Trong hình ảnh là độ phân giải mầu sắc tại các điểm giao thoa của các dòng quét
-Trong video là hình ảnh thay đổi với tốc độ 24 hình/s hoặc hơn nữa
-Ký tự chữ viết là hình ảnh đặc biệt của hình ảnh.
Sự số hóa được vi sử lý số hóa bằng các giá trị của cường độ dòng điện từ I1, I2,I3…I10 tương đương với các giá trị 1e, 2e…10e
và trong trình nhị phân là sự phân tách các giá trị của hệ số a của e thành hai giá trị của điện năng ( +e ; -e ), các dòng ký hiệu được phân cách bởi một ký hiệu xác lập, chúng biểu thị như là dấu cách trong bảng ký tự để phân định giữa các chữ số, tạo ra những dòng điện tử liên tục diễn đạt thông tin một cách chính xác.
Sự số hóa chính là một trình sơ khai tự động lưu chú hoặc nghi lại thông tin của từng loại cấu thành sản phẩm thông tin điện tử tùy thuộc từng loại truy nhập đầu vào của thiết bị ví dụ: đường truyền mạng, micro, camera... hoặc dữ liệu tạo ra bởi các công cụ của máy tính thông tin thiết lập bằng công thức toán học : (am)n.t
a: Là số lượng thông tin
m: Là chủng loại thông tin
n: Là hệ số của một nguyên lượng thông tin
t: Là thời gian
trình số hóa tự động lập ra các con số diễn đạt sản phẩm thông tin theo dãy số tiến, phải nói vì thế trong cùng một thiết bị hoặc trong một mạng máy tính các sản phẩm được diễn đạt bằng các dãy số, sẽ không có sự trùng lập các dãy số, và nguồn số là vô tận, ta thường dùng checking để lập ra một ID hay một trang web hoặc lưu thông tin trong một thiết bị thì hệ điều hành máy tính tự động điền thêm hệ số theo dãy số tiến.
không chỉ trong một mạng mà các mạng khác như:
– Mạng điện tử (e)
– Mạng proton (p)
– Mạng nơ-ron (n)
Chúng đều có hệ số chung là cơ sở số hóa. Như vậy sự số hóa mạnh mẽ diễn ra vào khoảng những năm 1993 -1995 cho tới nay, từ việc liên kết máy ảnh, điện thoại,máy in…
cho tới các thiết bị thuộc các hãng khác nhau đều liên thông được với nhau, không như trước đây dùng mã hóa theo đặc thù của mỗi hãng. Như vậy có thể nói số hóa là một sự hoàn hảo.
Với mạng proton sử dụng vi sử lý quang học chiết quang phân tách hoặc tích hợp ánh sáng bằng các tứ diện tinh thể kế tiếp nhau theo hai chiều tháp hay còn gọi là vi sử lý ( kim cương ).
VŨ TRỤ TRONG SUỐT.
Như đã nêu trong phần nguồn gốc của vũ trụ ở phần trên. Vũ trụ là vô định hình và không giới hạn đi từ thủa sơ khai như hình tượng từ điểm không của véc tơ thời gian là nơi bắt đầu sự hình thành lên vũ trụ.
Chúng ta đã biết phần tử nhỏ nhất của vật chất là các hạt điện tử, và môi trường vật chất đặc biệt bao quanh điện tích là điện trường, điện trường gây ra lực được gọi là lực điện, chúng tham gia quá trình tạo ra những vật chất sơ khai ban đầu. môi trường trong suốt đó bao gồm các vi vật chất nhỏ bé chúng có vai trò chuyền lực trong quá trình siêu liên kết. Vì quá nhỏ bé lên chúng là một môi trường trong suốt.
Như vậy môi trường điện trường ấy là trong suốt. Minh chứng cho sự trong suốt của vũ trụ ban đầu.
ĐĨA BAY VÀ NGUỒN NĂNG LƯỢNG.
Chúng ta hỏi tại sao đĩa bay lại có tầm hoạt động rộng lớn trong vũ trụ như vậy, trong khi thể tích của chúng có hạn không thể chứa nhiều thể tích nguyên liệu vậy chúng lấy nguồn năng lượng ở đâu?
Như viết ở phần trên nguyên lý hoạt động của chúng là lực đẩy từ trường của động cơ chính với nền từ trường bởi các động cơ phụ tạo ra, bằng nguồn điện năng. Chúng có nguồn phát điện cực lớn và tại sao đĩa bay lại không phát ra tiếng động.
Thông thường động cơ phát điện là do sự chuyển động của từ trường trong ống dây sinh ra dòng điện (do từ lực làm thực thể điện tích trong nguyên tử kim loại chuyển động theo một hướng nhất định tạo ra dòng điện).
Trong khi đĩa bay cũng ứng dụng sự chuyển động của dòng điện tử theo một hướng nhất định, nhưng cách tao ra chúng có phần khác các động cơ phát điện thông thường.( trong một ống phát điện, một đầu chúng có nguồn phát laze chiếu sang một đầu đối diện ở tâm có lõi kim loại Natri, bên ngoài ống có cuộn dây quấn tạo ra lực từ theo chiều chiếu của laze).
Natri là kim loại dễ bị phá vỡ hạt nhân khi phân rã chúng tạo ra các dương điện tử, theo chiều của từ lực tạo ra chúng được hấp thụ qua bề mặt tiết diện ống kim loại và chuyển động theo chiều từ lực sinh ra dòng điện tử chuyển động trong ống kim loại sinh ra dòng điện. như chúng ta dã biết, một Ampe bằng 6,24150948×10 mũ 18 điện tử trên giây qua 1 diện tích dây dẫn , trong khi một gam hay một mol bằng 6,02214129(27)×10 mũ 23 nguyên tử, natri có số hiệu nguyên tử 11 (số proton trong hạt nhân), cấu hình electron vì thế một gam natri có thể tạo ra khoảng 215000 kw/s. Một hiệu suất rất lớn chúng đủ để cung cấp cho sự hoạt động tiêu hao năng lượng của đĩa bay và công cụ chuyển động khác cũng như các thiết bị điện.
XÂY DỰNG NHÀ MỚI VÀO TRONG VŨ TRỤ XA XÔI.
Đỉnh cao khoa học của loài người là cỗ máy năng lượng vạn năng, một khi đã có máy năng lượng ngoài sản phẩm vật chất máy năng lượng còn tạo ra chương trình dưới dạng thông tin. dòng năng lượng thông tin này được lan chuyền vào trong vũ trụ với một tổ hợp chương trình được lập sẵn tính toán cho việc luồng thông tin này tự xác định dò tìm những hố đen năng lượng trong vũ trụ một khi bắt gặp được nguồn năng lượng của hố đen đã được dự định từ trước chúng đáp ứng được những điều kiện cho việc xây dựng quần thể vật chất các tiểu hành tinh thì dòng thông tin này giao thoa với năng lượng điểm khám phá tự động thiết lập tạo ra cỗ máy năng lượng và chúng dùng ngay nguồn năng lượng mới của hố đen vũ trụ đó tiếp tục xây dựng lên những cỗ máy năng lượng lớn hơn đủ đáp ứng cho việc xây dựng những hành tinh mới với các điều kiện cần và đủ cho sự sống. để tạo ra sự sống của loài người với lịch sử , nguồn gốc đã được thiết lập sẵn trong con tầu thông tin.
Như vậy sự gieo mầm sự sống và xã hội loài người không cần đến sự du hành của con người đến được hay không đến được miền sống mới trong vũ trụ mà chỉ cần tổ hợp thông tin lan chuyền vào trong vũ trụ được tạo ra bởi máy năng lượng.
Cũng bằng máy năng lượng với vận tốc vượt ngưỡng vận tốc của ánh sáng và nhanh hơn vận tốc của ánh sáng nhiều lần việc trở về quá khứ cũng là sự thật chứ không chỉ là chuyện viễn tưởng. con người và những vật chất chịu tác động của năng lượng vũ trụ đơn giản như chịu sự tác động các xung sóng thiên hà chúng tích hợp với một hiệu số nhất định, mỗi vật thể có một hiệu số tương tác xác định và được lan chuyền trong thiên hà hoặc trong vũ trụ với vận tốc ánh sáng . Một khi vận tốc truy tìm rất lớn bắt kịp được hệ số năng lượng lan truyền ấy ghi lại thông tin thì việc tái tạo lại vật thể bằng máy năng lượng là thực tế, chứ không có chuyện đi qua lỗ đen vũ trụ mà đi vào quá khứ hay đi đến tương lai là một chuyện phản khoa học. Bằng máy năng lượng là một chuyện thực tế của khoa học trong một thời gian gần nhất trong tương lai.
VŨ TRỤ LỚN.
Vì không có ai hay một công cụ nào có thể đo đạc được không gian của vũ trụ, xuất phát từ thực tế đó đã có kết luận là vũ trụ là vô định hình và không giới hạn, Nhưng theo quan điểm khoa học và cũng xuất phát từ nguyên tắc vật lý các phần tử vật chất có lực hút hấp dẫn lẫn nhau vậy toàn thể các quần thể vật chất trong vũ trụ chúng cũng tạo lên một lực gọi là tổng lực vũ trụ cho là super MAX chúng liên kết các phần tử vũ trụ tạo lên từng đám vật thể đậm đặc so với vũ trụ bao la.
Vì như đã biết chúng ta không thể quan sát hết được toàn bộ vũ trụ, chúng ta chưa thể thoát ra ngoài quần thể đó như một vị trí của trái đất trước đây trong thiên hà bằng mắt thường chỉ thấy bầu trời sao chứ không biết thiên hà của chúng ta là thế nào. Với tư duy lôgic, nguyên tắc vật lý và sự liên tưởng của con người thì vũ trụ có từng đám vũ trụ vật thể ta gọi là những vũ trụ thu nhỏ (tổng quần thể các thiên hà) và tổng thể các vũ trụ là vũ trụ lớn. Như vậy là có vũ trụ và các vũ trụ kế bên trong tổng thể vũ trụ lớn.
VŨ TRỤ TUẦN HOÀN NĂNG LƯỢNG.
Như trình bày ở phần trên vũ trụ xuất phát từ điểm âm vô cùng trên trục thời gian và chúng đi tới một tương lai mãi mãi có thể gọi là dương vô cùng. Như chúng ta đã biết sự chuyển động của các vật thể vật chất trong vũ trụ theo quán tính và lực hấp dẫn đã tạo lên sự bứt ra của các phần tử vật chất ngay một hành tinh sự tự quay quanh trục của nó cũng tạo lên lực ly tâm bứt ra của các phần tử vật chất, hoặc sự chuyển động của các thiên hà cũng tạo ra trường vật chất.
Như vậy các trường vật chất ấy hòa vào vũ trụ cùng với trường vật chất sơ khai ban đầu đó là năng lượng vũ trụ khi hội tụ đủ điều kiện hay độ lớn năng lượng chúng lại tiếp tục tham gia quá trình tạo ra vi hạt theo nguyên lý hấp dẫn và qui tắc hội tụ, tiếp tục tạo ra vật thể lớn hơn góp mặt trong vũ trụ, hay nói một cách khác năng lượng vũ trụ được tuần hoàn khép kín, chúng thỏa đáng với tôn chỉ là tồn tại mãi mãi và đi tới một tương lai vô cùng trên trục véc tơ của thời gian.
Để mô phỏng sự ra đời và tuần hoàn của vũ trụ bằng đường thân khai của đường tròn Đường thân khai của đường tròn là quỹ đạo của một điểm thuộc đường thẳng khi đường thẳng này lăn không trượt trên một đường tròn cố định.
Đường tròn cố định gọi là đường tròn cơ sở . đó là năng lượng ban đầu của vũ trụ hội đủ điều kiện tạo lên vật chất là điểm xuất phát ban đầu của đường thân khai và sự tuần hoàn của vũ trụ chính là đường tròn cơ sở.
Đúng với tiêu chí là năng lượng trong vũ trụ sinh ra nó không tự nhiên mất đi mà biết đổi từ dạng này sang dạng khác. Nó tuần hoàn năng lượng.
CÔNG NGHỆ IN 3D CHO VIỆC CHẾ TẠO SẢN PHẨM.
Ngày nay công nghệ in 3D đã được ứng dụng rộng rãi trong việc chế tạo sản phẩm và các loại chi tiết máy cho dù chúng có hình dáng phức tạp đến đâu,và không cần lắp ráp, chúng tiết kiệm thời gian và chi phí sản xuất, hơn thế nữa chúng chính xác một cách hoàn hảo. dựa trên cấu trúc hình lập phương, bao gồm các hình lập phương nhỏ xắp xếp tạo thành, hay mô tả một cách khác chúng là hình ảnh 3D như hình ảnh 2D có độ phân giải như màn hình của máy tính bao gồm 2 chiều (a và b) và một chiều thứ 3 là c nhiều lớp hình ảnh 2D. Thường công nghệ này dùng laze để chế tạo là các điểm giao thoa của của các chùm tia laze có công suất khác nhau. Tại điểm giao thoa tổng công suất các chùm tia đủ làm nóng chảy bột kim loại tạo ra sản phẩm theo phiên bản 3D của máy tính. Cũng có loại ngược lại làm nguội dung chất tạo ra sản phẩm.Song song với việc tạo khối sản phẩm chùm tia sử lý dường viền giúp cho những sản phẩm cần độ bóng bề mặt có độ bóng tới từng phân tử.
ĐÓ LÀ NỀN MÓNG CHO CÔNG NGHỆ VẠN NĂNG CỦA MÁY NĂNG LƯỢNG TẠO RA SẢN PHẨM KỂ CẢ SẢN PHẨM HỮU CƠ, HAY TẠO RA CẢ SẢN PHẨM VÔ HÌNH LÀ SẢN PHẨM THÔNG TIN.
YẾU TỐ THÀNH CÔNG CỦA VIỆC PHÂN RÃ VẬT CHẤT THÀNH ĐIỆN NĂNG.
– Yêu tố thứ nhất: đảm bảo giữa phụ tải tiêu thụ điện và nguồn cung phải bằng nhau, như ta đã biết khi nguyên tố natri bị phân rã bản chất của điện tử khi giải phóng chúng có vận tốc lớn hơn hoặc bằng vận tốc của ánh sáng. vì vậy khi lưu thông trong dây dẫn với một thế năng cực đại, nếu không cân đối lượng tiêu thụ. Chúng sẽ sinh nhiệt gây cháy nổ, cho dù đầu nguồn hấp thụ điện tử có bằng nguyên liệu Mo đi chăng nữa, thì cháy nổ cũng vẫn xảy ra.
– Yếu tố thứ hai: nguồn năng lượng laze và từ lượng cung cấp cho công đoạn phân rã natri thẩm thấu điện tử cho dòng điện phải là chính một phần trong nguồn điện do nó tạo ra. Tại sao là như vậy? bởi vì dòng điện do nó tạo ra là dòng điện một chiều, vận tốc xấp xỉ vận tốc ánh sáng. chúng không thể dùng dòng xoay chiều thông thường. để đảm bảo công năng và hiệu suất.
Người ta dùng nguồn năng lượng điện tạo ra kiểu này ( nguồn một chiều vận tốc cao) để dùng trong việc tạo ra từ trường cho pháo điện từ và pháo laze một cách hiệu quả. Hơn thế nữa chúng còn có nguồn cung nguyên liệu vô tận từ nước biển và chi phí cực thấp đảm bảo giá thành rẻ cho mọi người dân.
Chúng chính là nguồn điện năng sử dụng cho đĩa bay một phương tiện trong tương lai sẽ thay thế cho ô tô và máy bay hiện hành.
GIẢI PHÁP CHO GIAO THÔNG TRÁI ĐẤT THÔNG THOÁNG HƠN.
- ĐĨA BAY:
Với hệ thống lái mâm từ mềm tạo ra hiệu ứng các hướng chuyển động đa chiều tạo ra chuyển hướng chuyển động . Đĩa bay không hạn chế về tầm hoạt động và môi trường hoạt động, từ môi trường ngầm dưới nước cho tới trong bầu khí quyển cũng như bên ngoài vũ trụ vì vậy xuồng đĩa bay được trang bị hệ thống nén ô xy dùng cho người sử dụng.
Hệ thống điều khiển hầu hết được sử dụng ở chế độ tự động từ việc giữ khoảng cách an toàn giữa các xuồng bay cho tới hệ thống phanh đáp đỗ đều được lập trình và sử lý bằng máy tính, trường hợp hy hữu mới sủ dụng lái bằng tay. chúng hoạt động dựa vào vệ tinh định vị và bản đồ 3D.
- TẦU VŨ TRỤ HÌNH CẦU: Khi bay ra ngoài vũ trụ không còn lực cản của không khí để đáp ứng nhu cầu khoang sử dụng có thể tích lớn người ta thường dùng tầu có hình cầu với cấu trúc các chảo bố trí 4 hướng bên trong vỏ cầu làm tăng lực đẩy của phi thuyền cũng như dễ dàng chuyển đổi hướng bay kể cả hướng ngược chiều của chuyển động.
-TẦU CAO TỐC: Khi nhu cầu cần tốc độ siêu nhanh, dùng cho việc làm tầu do thám vũ trụ hay thám hiểm vùng xa xôi trong vũ trụ người ta thường dùng tầu có hình như một quả chuông có động cơ chính với đường kính lớn tối đa phía sau và những chảo từ nhỏ chung quanh vỏ tạo ra hệ thống đẩy cực đại để tạo ra gia tốc tối đa cho phi thuyền.
TẤT CẢ CÁC LOẠI TẦU NÓI TRÊN ĐỀU SỬ DỤNG LỰC ĐẨY TỪ TRƯỜNG THEO SỰ TĂNG GIA TỐC. VÌ VẬY KHI LẬP TRÌNH NGƯỜI TA THƯỜNG PHẢI BIẾT TRƯỚC THAM SỐ KHOẢNG CÁCH BAY ĐỂ TÍNH LỰC HÃM NGƯỢC CHIỀU TRIỆT TIÊU GIA TỐC BAY CỦA PHI THUYỀN.
- Thí nghiệm thứ hai mời các bạn cùng làm: vật dụng gồm có một chiếc đèn pin, một ống nhựa có đường kính bằng miệng của đèn pin dài 20 cm, một thấu kính hội tụ bằng với đường kính của ống nhựa, một đoạn dây đồng 2,0 mm dài 2 m, 3 chiếc pin 1,5 vôn.
Thao tác: quấn dây đồng quanh ống nhựa sau đó gắn hai đầu dây với 3 chiếc pin gắn nối tiếp với nhau sao cho chiều chiếu của đèn là cực dương còn đầu kia là cực âm, gắn thấu kính hội tụ vào đầu cực âm của ống dây, bật đèn pin cho chiếu dòng ánh sáng qua ống dây. Điểm hội tụ của dòng ánh sáng ta chiếu vào một giọt nước thông thường, quan sát kết quả xảy ra. ta thấy giọt nước keo lại như một chất nhầy trong suốt.
Nhận xét về thí nghiệm. dòng ánh sáng năng lượng cao đã là thay đổi tính chất hóa học của phân tử nước. Điều này chứng minh một lý thuyết vật lý rằng con người có thể tạo ra hay làm biến đổi một phân tử vật chất hay một nguyên tố hóa học.
Suy nghĩ về thí nghiệm thứ hai. rằng con người bắt trước tự nhiên tạo ra thế giới chủ quan của con người, khởi đầu sơ khai cho việc chế bản con người.
Tuy con người sinh học không thể bằng rô bốt người máy về sức lực, tốc độ tính toán, cảm biến tức thì nhưng mang tính nhân văn của nhân loại.
Khi nói về máy năng lượng như đã viết ở phần trước ban đầu ta thấy như thật sự vô lý, chúng ta biết khi một kg vật chất phân rã chúng giải phóng ra một năng lượng khổng lồ vậy khi hợp thành cũng cần một năng lượng tương ứng, khi năng lượng điện năng của chúng ta thì rất nhỏ chúng ta chọn giải pháp là biến đổi nguyên tố có nguồn là nước nhưng khi tạo ra vật chất từ một khoảng cách xa chúng ta thật sự cần tới năng lượng hợp hạt cơ bản, vậy làm cách nào đáp ứng được yêu cầu ấy, như đã trình bày ở phần trước chúng ta phải phân rã vật chất nguyên liệu tạo ra năng lượng hạt sau đó dùng hệ thống gia cường định mức năng lượng cho các chùm tia sau đó tổng hợp các chùm tia tại điểm giao thoa. Một vấn đề đặt ra là khi sản phẩm tạo thành là hợp chất chứ không chỉ có sản phẩm đơn chất, các hạt có vận tốc khác nhau mang một năng lượng khác nhau nhưng trong cùng một dòng các hạt có vận tốc khác nhau sẽ xảy ra sự va chạm giữa các hạt trước và sau, để giải quyết vấn đề này chúng ta dùng tới giải pháp là tạo ra số lượng của các chùm tia tăng dần theo số nguyên tử lượng theo bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học để tổng các chùm tia giao thoa thể hiện chính xác nguên tố hay hợp chất cần tạo thành.
Tất cả nằm trong một qui trình chính xác tuyệt đối. Máy năng lượng cần có một phần cứng tương ứng với phần mềm, chúng có gốc từ khi khởi tạo trình của máy tính các thông số về nguyên tử lượng, số lớp điện tử, số lượng điện tử trong một lớp đã được số hóa cụ thể trong phần tạo phần mềm cơ bản của máy tính ta có thể tự do tạo ra ngyên tố mới, phân tử hay hợp chất theo công thức hoặc phương trình hóa học, theo nguyên lý sinh học....như phần mềm máy tính có tên RAFE đã đáp ứng được yêu cầu đó, tạo ra đồ họa và xác định thành phần chất tạo thành sản phẩm. Sản phẩm tạo ra có thể xây dựng bằng công cụ máy tính như xác định ADN, bản đồ tế bào cơ thể, xây dựng sản phẩm cần tạo thành cũng có những sản phẩm tạo ra theo SIM là sản phẩm mẫu vật được sao chép số hóa cấu trúc, chất liệu sản phẩm, máy năng lượng tái tạo nguyên bản lại sản phẩm, các loại sản phẩm từ vô cơ cho tới các sản phẩm hữu cơ là thực phẩm thịt, cá, trái cây.....
*****những dự báo công nghệ tương lai của thế giới chúng ta*****
*****ĐỊNH HÌNH CUỘC SỐNG TƯƠNG LAI CỦA THẾ GIỚI. CON NGƯỜI THAY VÌ SỐNG TRONG NHỮNG NGÔI NHÀ LÚC ĐÓ SẼ SỐNG TRONG ĐĨA BAY CÓ ĐẦY ĐỦ CÁC PHÒNG CHỨC NĂNG NHƯ PHÒNG NGỦ, PHÒNG KHÁCH... THỰC PHẨM CUNG CẤP CHO CON NGƯỜI CŨNG BẰNG MÁY NĂNG LƯỢNG, GA ĐỖ ĐĨA BAY CÓ HÌNH ĐẤU TRƯỜNG LA MÃ ĐỂ MỌI NGƯỜI GIAO LƯU GIẢI TRÍ CÁC THÀNH PHỐ SẼ TRỞ THÀNH BẢO TÀNG LỊCH SỬ . CÔNG NGHỆ SỐ LÀ CÔNG CỤ CHÍNH TRONG MỌI MẶT ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
*****TÓM TẮT:
Những phần nội dung trình bày nhằm sáng tỏ nội dung sau: vũ trụ xuất phát từ gốc âm vô cùng đi tới tương lai vô cùng. Từ các vi hạt tạo lên điện tử, hạt nhân, điện tử và hạt nhân tạo ra nguyên tử, các nguyên tử liên kết với nhau tạo ra vật chất, các vật chất tạo ra các khối vật chất, các khối vật chất tạo ra thiên hà, các thiên hà tạo ra vũ trụ, các quần thể vũ trụ tạo lên vũ trụ lớn.
Con người bắt trước thiên nhiên dùng máy tính và công nghệ máy năng lượng tạo ra các nguyên tố hóa học kết hợp các nguyên tố hóa học thành các hợp chất, theo bản đồ ADN tạo ra các tế bào, các tế bào dựa theo bản đồ tế bào cơ thể tạo lên con người hoàn chỉnh.
*****Công nghệ số tương lai là tập hợp của những con số tự nhiên lúc này chúng không còn là những giá trị điện tử của các nguyên tử nữa mà là giá trị quang tử của dải mầu sắc, không chỉ của 7 sắc cầu vồng mà mỗi dải mầu có hàng tỷ mầu khác nhau, vì thế 10 giá trị quang tử là rất nhỏ so với hàng tỷ mầu. Vi sử lý lúc này thuộc vi sử lý quang học ((kim cương)) chúng phân tách mầu sắc hay tích hợp mầu với vận tốc của ánh sáng có thể sử lý hàng tỷ phép tính trong đơn vị một phần triệu của giây. đường truyền trực tiếp quang học gia tốc nhanh hơn ánh sáng thông thường. bộ phận lưu trữ không còn là thẻ nhớ kim loại mà là các chất hợp quang như chúng ta đã biết khoảng trống giữa các nguyên tử là rất lớn chúng có thể lưu trữ khối lượng lớn các phần tử trong một đơn vị khối lượng.
Như vậy công nghệ số tương lai mới đáp ứng được số lượng cực kì lớn các phép tính dùng trong máy năng lượng.
*****đó là tất cả những gì trong dự án của tương lai thế giới.
Tác giả: Hoàng Đình Vĩnh
HOÀNG ĐÌNH VĨNH 24 THÁNG 1 2018
Tôi đang tìm một công ty đối tác để chế tạo nguyên mẫu một chiếc đĩa bay đầu tiên trên thế giới phục vụ cho việc đăng ký bản quyền quốc tế và tiến tới sản xuất hàng loạt. rất mong sự hợp tác cùng các bạn.
- Hiện tại chúng tôi đang triển khai loại đĩa bay không người lái với kích thước nhỏ dùng cho việc do thám vũ trụ , khi bay ra ngoài vũ trụ những động cơ đốt trong không có đủ ô xy cung cấp cho động cơ. Chúng tôi triển khai loại động cơ phát điện vĩnh cửu với công suất nhỏ đáp ứng cho phi thuyền với hệ thống cánh tuốc bin làm bằng những thanh nam châm vĩnh cửu đối xứng và cùng cực, nghiêng một góc al pha để tạo ra mô men xoắn cho động cơ làm quay rô to của động cơ phát điện. như thế có thể chế tạo loại phi thuyền đĩa bay không người lái với động cơ vĩnh cửu mà không cần nhiên liệu, phục vụ cho việc nghiên cứu và do thám vũ trụ.
- Giai đoạn hai của đĩa bay chúng tôi nâng cấp động cơ thành phản lực hạt nhân. Cũng bằng năng lượng điện và nguyên lý như phản lực từ trường các đầu phóng hạt nhân hội tụ tại một điểm trước đầu đẩy chính của động cơ tạo ra gia tốc nhưng khác với từ lực là đầu phóng hạt nhân an toàn, sử dụng nguồn tia rơ ghen được kích hoạt qua ống dây quấn trùng khít tại một điểm tiết diện tạo ra cộng lực từ tại điểm tiết diện đó với nhiều cuộn dây như vậy sẽ tăng tốc tia rơ ghen phá vỡ nguyên tử khí heli . (có thể dùng khí nóng của nát ri để dễ bảo quản và cung cấp nguyên liệu cũng như hiệu suất nguyên tử lớn hơn.) thành phần hạt được phá vỡ lại một lần nữa được tăng tốc qua ống dây với những cuộn dây trùng lập như thế, tạo ra một loại hạt vi hạt proton và vi hạt electron ... định hướng. Tạo ra lực đẩy an toàn dùng cho thế hệ hai của các phi thuyền đĩa bay. Lưu ý; dây dẫn quấn ống dây là thanh dây có tiết diện hình thang vì vậy khi quấn các cuộn dây tạo lên các cuộn dây có hình côn, dòng điện trong dây dẫn chúng cũng tuân thủ như chất lỏng hoặc chất khí trong định luật Bernoulli. vì vậy tạo ra lực đẩy từ trường hướng theo chiều động cơ cần đẩy.
- Trong những ứng dụng dựa trên giai đoạn hai của động cơ phi thuyền đĩa bay là nâng và di chuyển vật thể một cách dễ dàng. Đó là phi thuyền chiếu chùm tia những hạt nặng tạo ra tỷ trọng đủ lực nâng vật thể khỏi mặt đất thắng trọng lực của vật thể. Như thế có thể làm vật thể hoặc cơ thể người bay lên cao. Làm thế nào di chuyển vật thể ấy? đó là chùm tia hạt phải theo nhứng vòng tròn đồng tâm những vòng tròn ngoài có tỷ trọng lớn hơn những vòng bên trong khi ấy vật thể có xu hướng dịch chuyển vào tâm khu vực xác định đó. Trong trường hợp này tốn rất nhiều năng lượng nên chỉ được dùng trong trường hợp đặc biệt.
Dự án khả thi cho máy năng lượng:
- Như chúng ta đã biết khi số hóa hình ảnh hay video chúng được tích hợp theo dòng quét ngang và dòng quét dọc tại diểm hình ảnh, được tái tạo và hiển thị trên màn hình đó là hình 2D khi sử dụng nhiềulớp hình ảnh 2D tạo lên khối hình 3D, trong công nghệ in 3D hiện nay.
- Trong sự giải phóng năng lượng hạt nhân an toàn tạo ra nguồn năng lượng theo mong muốn.
- Sự biến đổi nguyên tố hóa học trên cơ sở nguyên liệu là nước là một phương pháp khả thi nhất vì chúng ít tốn năng lượng.
* Phương pháp sử dụng hình cầu cùng với kết cấu giao thoa các chùm tia hạt năng lượng xác định hình khối vật thể cũng như thành phần vật chất của chúng trên nguyên mẫu sản phẩm đã xây dựng hoặc bản copy một sản phẩm cụ thể nhất định. như vậy sản phẩm có thể sản xuất ra một cách tức thì.
* Ngoài phương pháp trên máy năng lượng còn sử dụng những chùm tia hạt chiếu xa tạo ra khoảng cách để tạo ra sản phẩm.
ở đây sử dụng các chùm tia đồng tốc theo một một tổng năng lượng trên tổng các điểm giao thoa.
Sản phẩm của máy năng lượng có thể là một chất vô cơ cũng có thể là một chất hữu cơ hoặc một sinh vật cụ thể nhất định.
- Nguồn năng lượng của đĩa bay cũng áp dụng thế hệ hai của động cơ đĩa bay với đèn tia X với ca tốt cũng bằng nguyên liệu kim loại nát ri được tăng tốc qua ống gia cường làm phân rã kim loại nát ri . chỉ cần 100 g nát ri của đèn tia X sẽ làm phân rã 10 kg nát ri của bình năng lượng vì dòng năng lượng được tăng tốc lớn gấp 100 lần. và để tạo hiệu điện thế cho bình pin X ta dùng bình than hoạt tính lắp nối tiếp với cực âm của nguồn điện tạo ra hiệu ứng quay vòng cho dòng điện, bình than được thay thế khi chúng hấp thụ điện năng đã bão hòa.
Chỉ với 1 g kim loại khi pân rã sẽ cho ra khoảng 1 megawatts điện năng vì một Mol = 6,022.10 mũ23 đơn vị sỗ hạt nguyên tử và một Ampe bằng
6,24150948 · 10 mũ 18 điện tử, như vậy năng lượng điện sinh ra là rất lớn.
Ví dụ: một phi thuyền đĩa bay với động cơ 300 megawatts trên giây sẽ tiêu hao khoảng 1 g nhiên liệu nát ri sẽ tạo ra một gia tốc khoảng 10km/s với gia tốc như vậy nó bay vòng quanh trái đất 40.075,0 km trong khoảng thời gian là 89,44 giây bằng 1,5 phút.
- Bay tới mặt trăng với khoảng cách 384.400 km chỉ mất 5 phút
- Bay tới mặt trời với khoảng cách 149.600.000 km chỉ mất 90 phút
- Để đạt vận tốc của ánh sáng chỉ cần khoảng thời gian là 8,333 giờ
- Trong khoảng thời gian 24 giờ phi thuyền sẽ đạt vận tốc gấp 2,8 lần vận tốc của ánh sáng và bay xa với một khoảng cách là 37 tỷ km. Trong khoảng thời gian một năm phi thuyền sẽ bay được khoảng cách là: 5 triệu tỷ km bằng 525,6 năm ánh sáng với chiều dày của thiên hà là 2000 năm ánh sáng thì vị trí của hệ mặt trời trong thiên hà có khoảng cách đủ để phi thuyền bay ra khỏi thiên hà và tiêu hao chỉ mất 31 tấn nhiên liệu.
ví dụ trên cho ta thấy sự tiết kiệm nhiên liệu và lợi ích to lớn của việc tạo ra phi thuyền gia tốc.
* Trên lý thuyết dựa vào nguyên lý tăng tốc các hạt vật chất để đạt và lớn hơn vận tốc của ánh sáng nhiều lần dẫn tới một mơ ước tạo ra phi thuyền đủ lớn để đi tới phía đáy của thiên hà và thực hiện nhiệm vụ hứng các vật chất năng lượng để định hướng và tăng tốc cho chúng hội tụ tại vị trí theo ý muốn của con người, Thực tế là các dòng năng lượng phía đáy của thiên hà là sự phân rã do lực ly tâm của các vật thể chúng chuyển động xuống phía đấy của thiên hà ấy với vận tốc của ánh sáng chúng ta chỉ thực hiện những dòng năng lượng đó vào mục đính của con người.
với dòng hạt vật chất chuyển động bằng vận tốc ánh sáng của một máy năng lượng có tiết diện 10 000 mét vuông khi hội tụ thì trong khoảng thời gian 1 giây sẽ được 3000 ki lô mét khối vật chất với ví dụ này thì trong khoảng thời gian một năm sẽ tạo ra một hành tinh có thể tích 94608000000 ki lô mét khối và trong khoảng 10 năm có thể tạo ra một hệ mặt trời độc lập mới trong vũ trụ.
* Một điều cơ bản là khoảng không vũ trụ chúng tồn tại một loại hạt vi vật chất chúng tuy nhỏ bé nhưng đóng một vai trò quan trọng của sự hình thành ra các vật chất, vật thể trong vũ trụ. Chúng đóng vai trò chuyền lực hấp dẫn, chúng ta hình dung các hạt kế tiếp nhau như một chuỗi hạt hai đầu là hai véc tơ lực kéo hấp dẫn của hai vật thể nhưng bản thân các hạt chúng nội tại có lực liên kết hấp dẫn với nhau vì vậy chúng như một sợi dây chuyền lực. Khoảng cách giữa các hạt trong một dòng hạt là nhỏ bé nên sự chuyền năng lượng của các chuỗi hạt mang tính tức thì. Vì đặc điểm này con người có thể xây dựng mạng chuyền dẫn thông tin liên vì sao hoặc liên thiên hà một cách tức thì.
* Vũ trụ là một môi trường không gian chứa các vật thể và quần thể vật thể, trong môi trường không gian đó bao gồm các vi hạt vật chất , các vi hạt ấy có mối liên kết hấp dẫn với nhau bằng các thanh liên kết. Môi trường các vi hạt và các thanh liên kết biến đổi hình dạng kết cấu tuỳ thuộc vào chuyển động tự do của các vật thể. Chuyển động tự do bởi quán tính ban đầu và tương tác lực hấp dẫn với các vật thể trong phạm vi ảnh hưởng thông qua môi trường vi hạt không gian. Như vậy vũ trụ là một quần thể thống nhất tương tác hai chiều giữa các vật thể và không gian nên chúng tương đối hài hoà và ổn định cũng tương tự như thế vũ trụ lớn cũng bao gồm các vũ trụ trong nó một cách hài hoà.
* Đối với không gian vũ trụ thì phương pháp di chuyển bằng những phi thuyền đĩa bay có nhược điểm là khi tăng tốc đạt vận tốc cần thiết, nhưng khi tiếp đích thì phải triệt tiêu quán tính cần một năng lượng tương đương khi tăng tốc làm hao tổn năng lượng và thời gian chuyển động, chính vì lý do ấy những phi thuyền trung tâm đã giải quyết được vấn đề trên bằng phương pháp chuyển động phi quán tính những tầu hình cầu có cấu trúc hình lập phương nội tiếp hình cầu có sáu mặt động cơ phức hợp kép ba thể loại, động cơ phía trước phi thuyền tạo ra chùm tia phân rã electric năng lượng cao tạo ra môi trường chân không tuyệt đối. Phía sau phi thuyền là động cơ hội tụ kiểu tích hợp năng lượng giao thoa. Như vậy tạo ra sự chênh lệch áp suất giữa trước và sau phi thuyền trong một ống giun không gian hơn nữa chúng còn tạo ra sóng chuyển động thay đổi biên độ trong ống chuyển động đẩy phi thuyền theo ý muốn. Như vậy những phi thuyền kiểu này chuyển động bằng ngoại lực tức là môi trường giúp phi thuyền chuyển động đã giải quyết triệt để vấn đề quán tính. Những phi thuyền này có thể hoạt động hầu hết trong không gian xa xôi của vũ trụ.
Bàn về công nghệ số là dãy số vô hạn và không có sự trùng lập, tương tự như mã QR các ô được phân lập cho các ký tự với các ô mầu sắc có thể thay đổi với 10 mầu đó là 7 sắc cầu vồng cùng hai mầu cơ bản đen và trắng với mầu nguyên thuỷ trong suốt. Mỗi dãy số gồm 40 ô đại diện cho dãy số 40 con số, chiều ngang, chiều dọc và chiều cao mỗi chiều 40 con số. 10 con số đã là đơn vị hàng tỷ, với một dãy số 40 con số là rất lớn. Với hình lập phương các dãy số là vô vàn các ký tự thông tin. Một cơ thể hoàn chỉnh trung bình có 30 nghìn tỷ tế bào, với 7 tỷ người trên trái đất thì về mặt con số so với thông tin hình lập thể mầu chỉ là số nhỏ. Tương tự như hộp mầu ru bích thông tin được nén và giải nén như công cụ Ra và Zip trong máy tính có thể nói bằng phương pháp mầu sắc số hoá đã làm thay đổi các lưu trữ và chuyển tải thông tin. Bàn về máy năng lượng vạn năng có thể tạo ra vạn vật, muôn loài là sự thật các bản lưu cấu trúc và tính hoá của mỗi vật đều có thể tái tạo lại vật thể bằng máy năng lượng thông qua công cụ máy tính. Cấu trúc vật lý và hoá học trên cơ sở hạt nhân và các lớp điện tử cùng số lượng điện tử các lớp định hình về mặt nguyên tử hoá học cũng như phân tử xây dựng lên thành phần vật chất. Ở đây máy năng lượng được máy tính phân tách qua hai chùm ánh sáng năng lượng giao thoa tạo ra tiết diện hình ảnh, khác với hình ảnh thông thường là các điểm hình mầu sắc tạo ra hình ảnh thông thường, điểm hình của máy năng lượng là điểm tổng năng lượng hợp thành có thể là hạt quark hoặc hạt điện tử. Hình ảnh năng lượng là giao thoa của hai chùm ánh sáng năng lượng với độ phân giải điện tử hình ảnh 2D. Các hình ảnh cách nhau bằng na no mét, nhưng với vận tốc bằng và có thể nhanh hơn vận tốc của ánh sáng 300 nghìn km/s thì nhiều hình ảnh 2D ấy sẽ tạo ra vật phẩm 3D chỉ trong thời gian giây lát.( cũng đơn giản như đèn led chiếu qua màn hình mầu sắc dòng năng lượng cao đi qua màn hình đặc trưng của điểm ảnh năng lượng. Hai chùm năng lượng giao thoa tạo ra hình ảnh 2D năng lượng ). Như trình bày thì hoàn toàn có thể tạo ra bất kỳ sản phẩm nào mà con người muốn. Và mong rằng chúng sớm được thực thi để đem lại lợi ích cho con người.